Mối liên hệ giữa bệnh đái tháo đường type 2 và tăng huyết áp

Tăng huyết áp được gọi là “kẻ giết người thầm lặng” vì thường không có triệu chứng rõ ràng trong suốt một thời gian dài nhưng lại âm thầm phá hỏng mạch máu, tim cùng nhiều cơ quan khác trong cơ thể.
Tăng huyết áp là gì?
Tăng huyết áp là khi máu chảy qua mạch máu với áp lực quá mạnh. Huyết áp cao khiến cho tim phải co bóp mạnh hơn để đẩy máu qua mạch máu và theo thời gian, điều này khiến cho cơ tim trở nên suy yếu và dày lên.
Huyết áp dưới 120/80 mmHg được coi là mức bình thường.
Chỉ số đầu tiên (120) là huyết áp tâm thu, áp lực được tạo ra trong động mạch khi tim co bóp và đẩy máu ra ngoài. Chỉ số thứ hai (80) là huyết áp tâm trương, áp lực được duy trì trong động mạch khi cơ tim tạm thời giãn ra giữa các lần co bóp.
Theo khuyến nghị của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA), những người trên 20 tuổi khỏe mạnh có huyết áp dưới 120/80 mmHg nên đo huyết áp hai năm một lần. Những người mắc bệnh đái tháo đường nên đo huyết áp thường xuyên hơn, có thể cần đo ít nhất 4 lần mỗi năm. Những người bị đái tháo đường và tăng huyết áp nên tự đo huyết áp tại nhà, ghi lại kết quả mỗi lần đo và mang theo khi đi tái khám.
Tăng huyết áp và đái tháo đường làm tăng nguy cơ mắc những bệnh lý nào?
Theo Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA), mắc cùng lúc cả đái tháo đường type 2 và tăng huyết áp đặc biệt nguy hiểm. Điều này làm tăng đáng kể nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Mắc đái tháo đường type 2 và tăng huyết áp cùng lúc còn làm tăng nguy cơ gặp phải các biến chứng của bệnh đái tháo đường như bệnh thận và bệnh võng mạc. Bệnh võng mạc đái tháo đường có thể dẫn đến mù lòa.
Có bằng chứng cho thấy rằng tăng huyết áp mạn tính có thể khiến cho các bệnh lý thoái hóa thần kinh do lão hóa, chẳng hạn như bệnh Alzheimer và sa sút trí tuệ, xảy ra sớm hơn. Theo AHA, các mạch máu trong não đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi tình trạng huyết áp cao. Vì thế nên tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ chính gây đột quỵ và sa sút trí tuệ.
Bệnh đái tháo đường không được kiểm soát không phải là yếu tố duy nhất làm tăng nguy cơ tăng huyết áp. Nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ sẽ càng tăng cao khi có nhiều hơn một trong các yếu tố nguy cơ sau đây:
- Tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch
- Chế độ ăn nhiều chất béo, nhiều natri
- Lối sống ít vận động
- Cholesterol trong máu cao
- Tuổi cao
- Béo phì
- Hút thuốc lá
- Uống quá nhiều rượu
- Mắc các bệnh mạn tính như bệnh thận, đái tháo đường hay ngưng thở khi ngủ
Đái tháo đường và tăng huyết áp khi mang thai
Một nghiên cứu từ năm 2003 đã chỉ ra rằng những phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ bị tăng huyết áp cao hơn. Mặt khác, những phụ nữ kiểm soát tốt lượng đường trong máu trong thời gian mang thai ít có nguy cơ bị tăng huyết áp hơn.
Nếu bị tăng huyết áp trong thời gian mang thai, thai phụ sẽ phải làm xét nghiệm nước tiểu để kiểm tra nồng độ protein. Nồng độ protein cao trong nước tiểu có thể là dấu hiệu của tiền sản giật. Ngoài huyết áp và nồng độ protein trong nước tiểu cao, tiền sản giật còn có những triệu chứng khác như:
- Men gan bất thường
- Chức năng thận bất thường
- Số lượng tiểu cầu thấp
Phòng ngừa tăng huyết áp khi mắc bệnh đái tháo đường
Thực hiện một số thay đổi trong lối sống có thể làm giảm huyết áp. Một trong những điều quan trọng nhất là điều chỉnh thói quen ăn uống nhưng tập thể dục đều đặn cũng rất cần thiết.
Tập cardio là một hình thức tập luyện rất có lợi cho sức khỏe tim mạch. Bạn nên tập cường độ vừa phải 150 phút mỗi tuần hoặc tập cường độ cao 75 phút mỗi tuần, hoặc cũng có thể xen kẽ các buổi tập cường độ cao với cường độ vừa.Ví dụ về các bài tập cardio là đi bộ nhanh, chạy bộ, nhảy dây, bơi lội, đạp xe,…
Ngoài làm giảm huyết áp, hoạt động thể chất còn giúp tăng cường cơ tim và làm giảm tình trạng cứng động mạch. Đó đều là những thay đổi tự nhiên khi có tuổi nhưng bệnh đái tháo đường type 2 khiến cho những tình trạng này xảy ra nhanh hơn. Tập thể dục còn giúp kiểm soát lượng đường trong máu tốt hơn.
Nếu chưa từng tập thể dục trước đây, bạn có thể bắt đầu bằng 5 phút đi bộ nhanh mỗi ngày và tăng dần cường độ cũng như thời gian tập. Ngoài tập thể dục, hãy tăng cường vận động trong suốt cả ngày, ví dụ như leo cầu thang bộ thay vì thang máy và đi bộ thay vì đi xe khi đi khoảng cách gần.
Điều chỉnh chế độ ăn uống là một phần quan trọng để giảm nguy cơ tăng huyết áp. Bạn cần cắt giảm hoặc tránh những loại thực phẩm và thành phần có hại cho tim mạch như đường bổ sung, muối và chất béo xấu, ví dụ như thịt mỡ, thực phẩm chiên và sản phẩm từ sữa nguyên kem.
Theo ADA, có nhiều chế độ ăn uống có lợi cho người bị đái tháo đường nhưng tốt nhất nên chọn chế độ ăn mà bạn có thể duy trì suốt đời. Bạn có thể cân nhắc thực hiện chế độ ăn DASH. Đây là chế độ ăn được thiết kế để ngăn ngừa và điều trị huyết áp. Khi thực hiện chế độ ăn này, bạn cần:
- Ăn nhiều rau và trái cây tươi
- Thay sản phẩm từ sữa nguyên kem bằng sản phẩm ít béo hoặc tách béo.
- Hạn chế thực phẩm chế biến sẵn. Chọn những sản phẩm chứa dưới 140mg natri trong mỗi khẩu phần hoặc 400 - 600mg mỗi khẩu phần cho một bữa ăn.
- Giảm lượng muối
- Chọn thịt nạc, cá hoặc thịt gia cầm bỏ da.
- Nấu ăn bằng các phương pháp ít sử dụng chất béo như nướng, luộc hay hấp.
- Tránh đồ ăn chiên rán.
- Lựa chọn thực phẩm tươi, chưa qua chế biến.
- Chuyển sang ngũ cốc nguyên cám thay cho ngũ cốc tinh chế
Ngoài ra, nên ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày thay vì ba bữa lớn và chú ý khẩu phần ăn.
Điều trị tăng huyết áp
Mặc dù bệnh đái tháo đường type 2 và tăng huyết áp đôi khi có thể kiểm soát bằng cách thay đổi lối sống nhưng đa phần đều cần dùng thuốc. Loại thuốc và số lượng thuốc cần dùng tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh. Các loại thuốc điều trị tăng huyết áp chính là:
- Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE)
- Thuốc ức chế thụ thể angiotensin II (ARB)
- Thuốc chẹn beta
- Thuốc chẹn kênh canxi
- Thuốc lợi tiểu
Tốt nhất bạn nên đi khám để được bác sĩ kê loại thuốc phù hợp.

Tăng huyết áp có liên quan đến nhiều bệnh lý khác, bao gồm bệnh tim, thận và tuyến giáp. Tuy nhiên cũng có nhiều cách để giảm nguy cơ mắc những bệnh lý này khi bị tăng huyết áp.

Tăng huyết áp là bệnh chỉ bộc lộ rất ít hoặc không có triệu chứng. Do vậy mà đa số mọi người đều không hề biết mình bị bệnh trong suốt nhiều năm trời.

Tăng huyết áp không được coi là một loại bệnh tim mạch nhưng có thể dẫn đến bệnh tim mạch.

Mặc dù người trên 65 tuổi có nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp cao hơn nhưng căn bệnh này có thể xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn, thậm chí ở độ tuổi 20.

Tăng huyết áp là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây bệnh tim mạch, gồm có cơ tim phì đại và bệnh mạch vành.